Có nhiều yếu tố khác nhau cần xem xét khi phân tích mẫu vết máu . Điều đầu tiên mà điều tra viên muốn xác định là loại mẫu nào đang được trình bày.
Các mẫu vết máu có thể được trình bày dưới dạng:
• Vết/Mẫu nhỏ giọt
– Máu nhỏ giọt vào máu
– Máu bắn tung tóe (đổ)
– Máu bắn ra (bằng ống tiêm)
• Vết bẩn/Mô hình truyền
• Máu bắn tung tóe
– Castoff
– Tác động
– Dự kiến
Xem thêm: James Patrick Bulger - Thông tin tội phạm• Bóng mờ/Bóng mờ
Xem thêm: Lenny Dykstra - Thông tin tội phạm• Vuốt và xóa
• Máu thở ra
Khi điều tra viên đang phân tích các vết/mẫu nhỏ giọt, vết máu bắn ra, bóng mờ/bóng ma và máu thở ra, họ phải xem xét các yếu tố khác nhau, những yếu tố này bao gồm:
– Cho dù vận tốc của vết bắn tung tóe là thấp, trung bình hay cao
– Góc tác động
Vết bắn tung tóe vận tốc thấp thường có kích thước từ 4 đến 8 mm và thường là kết quả của việc máu nhỏ giọt sau đó nạn nhân bị thương như bị đâm hoặc trong một số trường hợp là bị đấm. Ví dụ, nếu một nạn nhân bị đâm và sau đó đi loanh quanh chảy máu, những giọt máu để lại có tốc độ thấp. Các giọt vận tốc thấp trong ví dụ này là các tia phân tán thụ động. Tốc độ bắn tung tóe thấp cũng có thể là kết quả của các vũng máu xung quanh cơ thể và sự di chuyển. Một vệt tán xạ vận tốc trung bình là kết quả của một lực ở bất kỳ đâu từ năm đến một trăm feet mỗi giây.Vết bắn tung tóe này có thể do một lực tác động mạnh như gậy bóng chày hoặc một cú đánh mạnh gây ra. Loại tia lửa này thường không quá bốn milimét. Loại tia lửa này cũng có thể là kết quả của một vết đâm. Điều này là do các động mạch có thể bị va chạm nếu chúng ở gần da và máu có thể phun ra từ những vết thương này. Điều này được phân loại là máu dự kiến. Tia bắn tốc độ cao thường do vết thương do đạn bắn gây ra nhưng có thể là do vết thương từ loại vũ khí khác nếu sử dụng đủ lực.
Sau khi xác định được loại vận tốc, điều quan trọng là phải xác định góc va chạm. Cần tìm ra hai yếu tố này để có thể xác định được điểm gốc. Một nhận xét chung mà các nhà điều tra có thể đưa ra về góc mà không cần tính toán gì là góc càng nhọn thì “đuôi” của giọt nước càng dài. Góc tác động được xác định bằng cách chia chiều rộng cho chiều dài của điểm rơi. Sau khi xác định được góc, các nhà điều tra sẽ lấy arcsine (hàm sin nghịch đảo) của số đó rồi sử dụng chuỗi (việc sử dụng chuỗi để lập biểu đồ quỹ đạo của tất cả các giọt máu trong không khí) để xác định điểm xuất phát (nơi vết đốt hội tụ).
|
|