Khi một phóng viên tò mò hỏi tại sao anh ta cứ cướp ngân hàng, “Slick Willie” Sutton trả lời cộc lốc: “bởi vì đó là nơi chứa tiền”.
Xem thêm: The Keepers - Thông tin tội phạmCướp, hành động đột nhập vào một ngân hàng mở và moi tiền bằng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, khác với hành vi trộm cắp, cấu thành việc đột nhập vào một ngân hàng đóng cửa.
Thời kỳ cướp ngân hàng đáng chú ý đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ trùng khớp với quá trình mở rộng của đất nước về phía tây. Các băng nhóm sống ngoài vòng pháp luật như Butch Cassidy's Wild Bunch và James-Younger Gang đã càn quét khắp miền Tây hoang dã vô luật pháp huyền thoại, cướp ngân hàng, chặn tàu hỏa và giết các sĩ quan thực thi pháp luật. Các nhà sử học tin rằng vụ cướp ngân hàng đầu tiên ở Hoa Kỳ xảy ra khi các cộng sự của Jesse và Frank James cướp Hiệp hội Tiết kiệm Hạt Clay ở Liberty, Missouri vào ngày 13 tháng 2 năm 1866. Ngân hàng thuộc sở hữu của các cựu dân quân Cộng hòa và anh em nhà James cùng các cộng sự của họ là những người cựu quân miền Nam trung thành và cay đắng. Băng nhóm đã trốn thoát với 60.000 đô la và làm bị thương một người ngoài cuộc vô tội trong quá trình tẩu thoát. Ngay sau đó, anh em nhà James hợp lực với Cole Younger ngoài vòng pháp luật và một số cựu Liên minh miền Nam khác để thành lập Băng đảng James-Younger. Họ đã đi khắp miền nam và miền tây Hoa Kỳ, thường chọn cướp ngân hàng và xe ngựa trước đám đông người dân. Họ trở thành những anh hùng chống lại phương Tây và người già.Liên bang. The Wild Bunch, hoạt động vào đầu những năm 1900 và có sự tham gia của Butch Cassidy, Sundance Kid và Ben Kilpatrick, là một băng nhóm sống ngoài vòng pháp luật mang tính biểu tượng khác của miền Tây hoang dã. Trong khi chủ yếu cướp các chuyến tàu, The Wild Bunch chịu trách nhiệm về một số vụ cướp ngân hàng, bao gồm một vụ tại Ngân hàng First Nation ở Winnemucca, Nevada với số tiền hơn 32.000 đô la.
Khi ngày càng có nhiều người định cư và phát triển phương Tây, kỷ nguyên của kẻ ngoài vòng pháp luật cướp ngân hàng suy yếu dần, chỉ được thay thế bằng kỷ nguyên “Kẻ thù chung” của những năm 1930. Sự gia tăng các vụ cướp ngân hàng và tội phạm có tổ chức trong những năm 1920 và 1930 đã buộc J. Edgar Hoover phải phát triển Cục Điều tra Liên bang (FBI) nâng cao. Anh ta sử dụng thuật ngữ “kẻ thù của công chúng” như một chiêu trò công khai đề cập đến những tên tội phạm bị truy nã đã bị buộc tội. Hoover đã truyền lại sự phân biệt đáng ngờ là “Kẻ thù công khai số 1″ cho những kẻ ngoài vòng pháp luật John Dillinger, Pretty Boy Floyd, Baby Face Nelson và Alvin “Creepy” Karpis tương ứng, vì mỗi người đều bị giết hoặc bị bắt. Đặt trong bối cảnh của cuộc Đại suy thoái, các vụ cướp ngân hàng của từng “kẻ thù công khai” hiện ra hoành tráng và quyến rũ. Gần như bị lãng quên ngày hôm nay, Harvey John Bailey, kẻ cướp ngân hàng từ năm 1920 đến năm 1933 đã thu về cho hắn hơn 1 triệu đô la, được gọi là “Trưởng nhóm cướp ngân hàng Mỹ”. John Dillinger và băng đảng có liên quan đã cướp hàng chục ngân hàng từ năm 1933 đến 1934 và có thể đãtích lũy được hơn 300.000 đô la. Trong khi Dillinger chiếm một vị trí gần giống như Robin Hood trong văn hóa Mỹ, thì đối tác của anh, Baby Face Nelson, lại là phản đề. Nelson khét tiếng vì đã bắn cả luật sư và những người ngoài cuộc vô tội, đồng thời giữ kỷ lục giết nhiều đặc vụ FBI trong khi thi hành công vụ hơn bất kỳ tên tội phạm nào khác. Thành công của những “kẻ thù chung” này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn; năm 1934, FBI gài bẫy và giết chết Dillinger, Nelson và Floyd.
Mặc dù các vụ cướp ngân hàng vẫn phổ biến vào đầu những năm 1900 với những thủ phạm như Bonnie & Clyde, sự phát triển của công nghệ chống cướp đã khiến việc cướp ngân hàng và tẩu thoát trở nên khó khăn hơn nhiều trong thời kỳ hiện đại. Các gói thuốc nhuộm phát nổ, camera an ninh và hệ thống báo động im lặng đều góp phần làm giảm các vụ cướp ngân hàng thành công. Mặc dù thời hoàng kim của tên cướp ngân hàng Mỹ đã qua, nhưng nhiều kẻ đang tìm cách kiếm tiền dễ dàng vẫn tiếp tục thực hiện tội ác này.
Xem thêm: Bạn sẽ cam kết loại tội phạm nào? - Thông tin tội phạm
|
|